Tên di sản : Núi Bằng Trình và Chùa Thái Bình

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 3332/QĐ - UBND

Giới thiệu

Về núi Bàn A sơn: Ở cửa sông Lương Giang thuộc xã Đại Khánh. Nửa ngọn bên trái qua chỗ vách đá trên bờ sông làm thành núi Bằng Trình. Nửa bên phải án ngữ trên bờ có tảng đá chắn ngang ra, dưới chân đá nước chảy sóng cuộn, trên ngọn cao vách dựng cheo leo. Cách mặt đất khoảng hơn một trường có tảng đá vuông ngôi vừa một người. Vua Lê Hiến Tông từng lên chỗ đây, gọi đó là “Lâm tuyền ẩn thể” (nơi ẩn của khách lâm tuyền). Cuối đời Lê, Hiến Sát Sử [Thanh Hoa] Ngô Thì Sĩ khắc trên chỗ hõm ở bờ đối diện bên kia 3 chữ lớn Bàn A Sơn để gọi tên núi, lại đặt tên cho hõm đá đó là Quan lan sào (cái tổ để ngồi xem sóng) và sáng tác Quan Lạn thập vịnh (10 bài vịnh xem sóng) khắc vào vách đá. Tên 10 bài vịnh: 1. Khách Bằng liệt chướng (núi Bằng Trình ở xã Đại Khánh dàn hàng); 2. Lương Mã sông phàm (Hai cánh buồm trên sông Lương Giang và sông Mã). Thạch Tượng dục Hà (Voi đá tắm sông). 4. Lĩnh quy xuất thủy (Rùa đá nhô lên mặt nước). 5. Cổ độ Kỳ đình (Đình cờ bến cổ). 6. Viễn sâm Yên Thụ (Cây mờ núi xa). 7. Cô sơn mao xá (nhà tranh núi vắng). 8. Các ngạn thời Lâm (Rừng thiền cách sống). 9. Sơn hạ ngư ky (Ghênh chài chín núi). 10. Giang Trung mục phố (Bãi tắm trâu giữ sông).

Phía dưới bên phải nói đó có ngôi chùa, gọi là chùa Đại Hùng (còn gọi là chùa Vồm). Chùa này xếp đá làm vách, giữa có pho tượng Phật nét mặt uy nghiêm, thân Phật lấp loáng khi ẩn khi hiện Trước chùa có bia khắc vào niên hiệu Quang Thuận (1460 - 1469) đời Lê Thánh Tông.

Mười cảnh đẹp nên trên đã quây quần, hội tụ ở hai bờ sông Chu mà các sử gia và danh sĩ xưa đã gọi là Bàn A Sơn thập cảnh, và trong 10 cảnh đẹp đó có núi Bằng Trình được gọi là “Khánh bằng liệt chướng”.

Về núi Bằng Trình: còn gọi là núi Thái Bình (tên nôm gọi là núi Trịnh) thuộc làng Bằng Trình, huyện Thụy Nguyên là một ngọn núi đứng riêng, bên phải dựa vào núi Bàn A, phía trước nhìn xuống dòng sông Mã, hình núi kỳ lạ đẹp đẽ, phong cảnh thật thanh nhã (Đồng Khánh địa dư chí). Còn sách Lịch triều hiến chương loại chí thì lại chép: Núi Bàn A ở xã Đại Khánh, huyện Đông Sơn, núi rất cao mà quanh co uốn éo, thầm nghiêm và rộng thoáng đáng ưa. Trông xuống thì sông Lương ở liền chân núi.

Một dải núi bên hữu chạy ra là núi Na Sơn, một giải núi từ huyện Thụy Nguyên chạy xuống là núi Thái Bình (tên núi B��ng Trình), sông Mã chảy đến đây hợp lại. Hai song chắn ở phía trước, hai núi ôm lại, cảnh trí rất thoáng rộng.

Quan sát trên thực địa thấy núi Bằng Trình nằm bên tả ngạn sông Chu, án ngữ những điểm nút, ngã ba của ba xã Thiệu Hợp, Thiệu Dương, Thiệu Khánh. Ngã ba của sông Chu, sông Mã, hai con sông lớn nhất của tỉnh Thanh Hoá cùng với núi Vồm (núi Bàn A), núi Đọ (Thiệu Tân) tạo ra thế chân kiềng vững chãi.

Về mặt địa lý, núi Bằng Trình chiếm không gian không lớn trong quần thể với đường chân núi có hình elíp ngang dài đến gần 1km, nhưng có cấu tạo địa chất đặc biệt. Một đặc điểm dễ nhìn thấy của đá núi Bằng Trình là cứng rắn, sắc cạnh hơn nhiều lần các loại đá vôi, đá lớp,... Theo các nhà địa chất thì cách đây 250-260 triệu năm (khoa học gọi là Kỷ pecnic), một dòng dung nham trong lòng đất có nhiệt độ, áp suất cực lớn đã phun trào, về mặt nào đó có thể xem như một núi lửa, dòng dung nham nguội lạnh đông đặc tạo khối đá màu trắng, màu hồng, màu tím, màu vàng lấp lánh gần giống loại đá quý rubi...

Như vậy, núi Bằng Trình là một ngọn núi độc lập đứng bên tả ngạn của sông Chu. Dưới chân núi có chùa Thái Bình, cửa chùa trên đỉnh núi đối diện với núi Bàn A đã tạo nên cảnh đẹp Khánh bằng liệt chướng. Khánh bằng liệt chướng là núi đá núi Bằng Trình giảng hàng; núi này đối diện với núi Vồm và cùng chung một dải, tạo nên cảnh hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên Bàn A Sơn.

Về mặt lịch sử, từ thời Hai Bà Trưng, sau khi chiếm được huyện lỵ Dư Phát, Mã Viện đã đưa quân thuỷ bộ, ngược sông Lèn rồi theo đường sông Mã đến Ngã ba Đầu (nơi hợp lưu của sông Mã và sông Chu) để tấn công Tư Phố (làng Giàng, Thiệu Dương) với ý đồ là tiêu diệt bằng được lực lượng quan trọng này của nghĩa quân, nơi mà Cừ suý Cửu Chân là Chu Bá đang đóng giữ. Nhưng khi đến núi Bằng Trình, quân Mã Viện đã phải đương đầu với lực lượng chính của nghĩa quân tại núi này.

Kết quả nghiên cứu khảo cổ về thời kỳ Hai Bà Trưng đã có kết luận về trận quyết chiến chiến lược này. Sưu tập hiện vật ở núi Bằng Trình khá phong phú với đủ các chất liệu: đồ đá, đồ đồng và đồ sắt. Đặc biệt đã tìm thấy 33 mũi tên đồng gồm hai loại: loại có họng và loại có chuôi. Riêng loại có chuối chiếm hơn 80% tổng số mũi tên được phân thành 3 nhóm với nhiều kiểu dáng và kích thước khác nhau. Nhiều chiếc đã bị cong, bị sứt mũi hoặc gãy chuôi. Tất cả đều cắm vùi một hướng, rải rác trên sườn phía đông nam núi Bằng Trình. Sự phong phú về kiểu dáng của sưu tập mũi tên này, dẫu không nhiều về số lượng như kho tên đồng Cổ Loa, nhưng đã phản ánh một thực tế lịch sử, những mũi tên này được sản xuất từ nhiều vùng khác nhau của đất nước và đã theo chân các dân binh Lạc Việt vào trận đánh quan trọng này.

Cũng ở địa điểm núi Bằng Trình, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy rất nhiều tàn tích chiến tranh khác như mảnh xương sọ, xương ống chân, ống tay người... kết hợp với nhiều nguồn tư liệu khác nhau như khảo cổ học, địa lý học lịch sử, thư tịch cổ,...nhiều nhà nghiên cứu đã có những nhận định thống nhất khi nói về trận...này ở núi Bằng Trình “(Lịch sử Thanh Hoá tập 2 Nxb KHXH Hà Nội, 1994, tr38).

Như vậy, xét về mặt thắng tích, núi Bằng Trình là một trong 10 cảnh đẹp của quần thể di tích Bàn A Sơn; về lịch sử là di tích lịch sử tiêu biểu của thời kỳ Hai Bà Trưng; là ngọn núi có thành phần đá núi đẹp đẽ nhiều màu sắc, xét về mặt cấu tạo địa chất; vì thế ngọn núi này cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt hơn nữa để sự tồn tại của nó góp vào khung cảnh thiên nhiên của một vùng đất có cảnh trí đẹp đẽ và nên thơ.

Chùa Thái Bình:

Chùa nhìn ra sông Lương, sau chùa có hang đá thông suốt từ phía đông sang phía tây. Cạnh chùa có tháp cửu phẩm liên hoa nhưng đã bị sụp đổ. Tình Vương Trị Sâm có đề thơ vịnh cảnh chùa:

Phiên âm:

                           Sơn thuỷ hồi hoàn giác hữu tình,

                           Luân Huân thụy khí uỷ Bằng Trình.

                           Nhất điều thạch khiếu thông tà kính,

                           Cửu phẩm kim đài ỷ tiểu bình.

                           Thiên thị nhân quy sơ nguyệt thường,

                           Ngư than kích độ vãn trào sinh.

                           Thử lại chính nghĩ trường phong thuỷ,

                           Thần bạch tùng xa tụng Thái bình.

Dịch:

                           Non nước quanh co thật hữu tình

                           Khí lành cuộn thổi bước hành trình.

                           Hang đá mở thông con đường dối,

                           Đài sen tựa vách núi chênh vênh.

                           Người về xóm chợ trăng non mọc,

                           Thuyền ghé bãi sông nước triều dềnh.

                           Xem ra cảnh vận dường tươi đẹp

                           Theo xe trẻ hát ngợi thái bình.

                                                                                     (Bản dịch của Nguyễn Văn Nguyên)

Theo sự mô tả của các sách địa chí trước đây, chùa Thái Bình là một di tích nằm ở một vùng thắng tích nổi tiếng được người xưa ca tụng. Về quy mô, ngoài chùa chính là nơi thờ Phật, chùa còn có cả tháp cửu phẩm Liên Hoa. Loại hình kiến trúc gồm có cả chùa và tháp cửu phẩm Liên Hoa trong các công trình tín ngưỡng trước đây thường nói lên quy mô to lớn của công trình.

Hiện nay, trải qua năm tháng thời gian những biến động của lịch sử chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời tiết, diện mạo của ngôi chùa đã bị phá huỷ hoàn toàn, chỉ còn lại đất đai, nền móng và một số di vật. Năm 2002, bằng sự đóng góp của nhân dân trong vùng và du khách thập phương, một phần diện mạo của ngôi chùa đã được xây dựng lại nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân. Cụ thể các công trình như sau:

Hậu cung chùa chính: có diện tích 25,38m2 (dài 5,4m, rộng 4,7m) Cấu trúc của vì kèo đơn giản, không có gì đặc biệt. Đây là nơi bài trí hệ thống tượng pháp gồm: Ba pho tượng Tam Thế đặt ở bệ thờ trên cùng sát vách thượng điện, bệ thứ hai đặt pho tượng Đức Phật tổ Như Lai, bệ thờ thứ 3 đặt hai pho tượng Đức Ông, bệ thờ thứ 4 đặt tượng phật Thích Ca đứng trong toà Cửu Long. Ở hai bên bệ thờ chính được bố trí hai bệ thờ riêng: bên hữu là tượng Quan Âm, bên tả là tượng thần Thổ Địa.

Nhìn chung, hệ thống tượng pháp ở đây còn ít, do không gian của chùa hẹp, nhưng hệ thống tượng được tạo tác đảm bảo, đúng tiêu chuẩn kỹ thuật và truyền thống tạc tượng của các nghệ nhân thời xưa. Tuy là bộ tượng mới nhưng giá trị nghệ thuật của những pho tượng này cùng với việc đặt tượng ở điện thờ vẫn có ý nghĩa trong việc tìm hiểu hệ thống thờ tự ở các ngôi chùa của nước ta.

Bên cạnh hệ thống tượng Phật, trong chùa còn lưu giữ được một số hiện vật quý giá như:

Bát hương đồng cổ (thứ nhất): có chiều cao 20cm, đường kính miệng 20cm, trang trí trên bát hương được chạm khắc nổi hình rồng trong mây lửa và trên miệng là là hình đường truyện. Tất cả các bức chạm này đều thể hiện trình độ tinh xảo với một lối chạm nổi có kỹ thuật cao. Niên đại của bát hương đồng này có phong cách thời Lê.

Bát hương đồng cổ (thứ 2): có chiều cao 36cm, đường kính miệng 35cm. Loại bát hương này có xương cốt mỏng. Kỹ thuật tạo dáng gồm 3 phần: phần để được tạo hình sóng nước. Khoảng cách giữa đế và thân được đúc lõm để tạo nên dáng mềm mại. Phần thân bát hương là những núm vú được chạy quanh viên ở phía dưới (sát đế) với gần sát miệng. Trên thân bát hương được chạm chìm hình rồng uốn lượn trong tư thế đang bay vờn mặt nguyệt với đầu ngẩng cao, mõm nhô ra, râu bay về phía sau, chân rồng vươn về phía trước. Điểm xuyết trong không gian rồng bay là hình các cụm mây. Phần miệng bát hương được nối rộng ra tạo thành đường gờ lớn để tạo nên sự hài hoà mềm mại trong việc tạo dáng của nghệ nhân đúc. Với chất liệu đồng và dáng rồng được chạm như trên có thể đoán định, chiếc bát hương này có phong cách thời Lê - Mạc.

Bát hương gốm: có chiều cao 45cm, đường kính miệng 55cm, đường kính đáy 35cm. Đây là một bát hương gốm lớn ít thấy ở các di tích. Trang trí trên bát hương được chia làm 3 phần: phần đáy được người thợ gốm tạo dáng thu nhỏ lại ở phía đế và sát chân đế lại được nở ra. Phần ngăn cách giữa đế và thân là 2 đường gờ nổi vo tròn. Phía thân của bát hương được chia làm 2 phần: phân phình ra được đắp nổi hình hoa hồng, lá xung quanh hoa được khắc chìm, xung quanh thân bát có 6 bông hoa như vậy. Phía trên phần hoa là một đường gờ chỉ chạy quanh bát vo tròn; phía trên gần sát miệng là một đường gờ chỉ vo tròn nữa và ở giữa là hình đường truyền nổi. Khoảng cách xung quanh đường truyền này, còn có những đầu sư tử nổi (gồm 5 con). Phía trên cùng là miệng bát được tạo gờ rộng bản hơn thân của bát. Tất cả sự trang trí này đã tạo nên sự phong phú về đề tài trong tư duy thẩm mỹ của người thợ gốm ngày xưa. Niên đại của bát hương này có lẽ được làm vào đầu thế kỷ XX.

Bát hương đá: Hiện nay ở chùa còn 4 bát hương đá cổ.

Bát hương đá tròn: Còn khá nguyên vẹn, có chiều cao 35cm, đường kính miệng 20cm. Dáng của bát hương được tạo tác theo thế chân quỳ gồm 3 phần: chân đế, thân và miệng. Ở phần chân đế trên 4 chân được chạm nổi hình đầu sư tử; phần thân là hình lưỡng long chầu nguyệt. Miệng loe ra được chạm khắc hình đường truyện chìm.

4 bát hương còn lại: Dáng hình chữ nhật có tai, trong đó có 2 chiếc chạm nổi hình rồng chầu mặt nhật, đế chạm đầu sư tử.

Hai bát hương khác đề tài chạm trên thân bát là hình hoa lá, chữ thọ và vân mây.

Có thể thấy, những bát hương đá này, mỗi chiếc là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh được tạo tác với trình độ nghệ thuật cao. Đề tài trang trí, kiểu dáng cho biết, những bát hương này có niên đại thời Lê.

Nhà thờ Mẫu.

Được cấu trúc gồm có sân, tiền đường, hậu cung. Sân có diện tích 24m2 (dài 4,3m x rộng 5,6m). Tiền đường có diện tích 28m2 (dài 5m x rộng 5,6m). Hậu cung có diện tích 7,2m2 (dài 2,95m x rộng 2,55m). Đây là một nhà thờ Mẫu mới được xây dựng còn nhỏ bé, kết cấu kiến trúc cũng như vật liệu còn đơn giản.

Tượng thờ trong nhà mẫu có 3 pho Tam Toà thánh Mẫu được đặt trên bề thờ xây bằng vôi vữa.

Tóm lại: Cho dù quy mô kiến trúc của chùa Thái Bình xưa không còn nữa, nhưng những gì trong sử sách thi ca ghi chép và ca tụng về cảnh trí của khu vực này thì vẫn còn mãi mãi. Nó đã cùng với núi Bằng Trình thắng tích và lịch sử để làm nên một “khánh bằng liệt chướng” một trong 10 cảnh đẹp của thắng cảnh Bàn A Sơn nổi tiếng.

Các hiện vật trong di tích:

2 bát hương đồng cổ (thời Lê - Mạc)

1 bát hương gốm (thời Nguyễn)

4 bát hương đá (thời Lê)

1 pho tượng Cửu long (mới)

10 pho tượng Phật (mới)

1 chuông đồng (mới)

2 độc bình (mới)

4 bát hương sứ (mới)

1 khay gỗ (mới)

1 chậu đá (cổ)

2 long ngai (mới)

1 bia đá ghi sự trùng tu tiền đường chùa thời Lê (chữ mờ, chưa phiên dịch hết).

Ngoài ra, di tích còn lưu giữ được một số chân tảng, gạch vồ thời Lê, vốn là của di tích trước đây.

Hình ảnh Núi Bằng Trình và Chùa Thái Bình

Núi Bằng Trình và Chùa Thái Bình

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật